Trong một thời gian dài , sự phát triển của thị trường BĐS dự án thới an city tại Việt Nam phát triển mạnh nhờ một số tiền đề như: tốc độ tăng trưởng hàng năm cao hơn bình quân của thế giới và châu Á; có nhiều BĐS cũ bị hư hại , xuống cấp , cần cải tạo và xây dựng mới; kinh tế chung của đất nước phát triển kéo theo nhu cầu về nhà của từng lớp khá giả và trung lưu; và chính sách định hướng vĩ mô với cơ chế thông thoáng , tạo điều kiện tiện lợi cho các nhà đầu tư dự khán vào chuye này.



Tuy nhiên , trên bước đường phát triển , thị trường BĐS cũng tồn tại không ít “lỗ hổng”: Diện tích đất công bị thu hẹp , đầu cơ đất nhiều nhưng khả năng thu hồi lại để sử dụng đúng mục tiêu rất thấp , hỗ trợ tín dụng cho BĐS khá dễ dãi , giá chuyển nhượng BĐS khá cao so với thu nhập. Đến khi thịt BĐS thoái trào , xuất hiện tình trạng cung nhiều hơn cầu khiến doanh nghiệp BĐS phải đối mặt với sự tồn đọng vốn và các khoản nợ tín dụng.


Từ đầu năm 2012 đến nay , ông Hiệp cho biết , có rất nhiều dự án bị ngưng trệ vì nhiều lý do , trong đó , nhiều nhà đầu tư lo ngại không thu hồi được vốn vì sự u ám của thị trường.


sai trái phổ thông của các nhà đầu tư BĐS là tâm lý “bầy đàn” , nghĩ rằng BĐS sẽ liên tiếp lên giá , lãi cao nên quyết định đầu tư vào khu vực mà mình không có chuyên trị , không nghiên cứu kỹ. Do đó , phần nào dẫn đến việc đầu tư lệch phân khúc.


trong khi nhu cầu của thị trường tập trung vào nhà ở có diện tích và giá cả trung bình thì hầu hết các đề án đều đánh mạnh vào căn hộ cao cấp có diện tích lớn.


ngoại giả , ngày nay giá nhà Việt Nam mà đặc biệt là ở TP.HCM và Hà Nội đã rất cao so với mặt bằng chung của khu vực và thế giới.


Tại TP.HCM , số lượng nhà ở từng lớp chưa đáp ứng được nhu cầu dù thành phố có chính sách phát triển. Vì thế , một số DN linh động xin phép thay đổi diện tích căn hộ lớn thành nhiều không gian nhỏ hơn nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng và khai thác hiệu quả dự án.


Tuy nhiên , theo ông Hiệp , ý tưởng này khó khả thi về nhiều mặt như kết cấu , không gian sống , quản lý hành chính tại địa phương. Đây không phải là bài thuốc đúng cho mô hình nhà ở xã hội.


bây giờ , DN tham dự các dự án nhà tầng lớp phải tự đi vay , tự đầu tư nhưng quyết định giá bán là quốc gia. Dù có được phép cho thuê nhưng lại nảy sinh nhiều vấn đề nhức đầu cho doanh nghiệp.


Cơ chế chưa hợp lý này khiến không ít DN ngán ngại đầu tư cho phân khúc này. Mô hình ăn nhập nhất , theo ông Hiệp đó là: DN đầu tư , TP mua lại và quản lý ( theo hình thức đổi đề án ).


Để cải thiện và xây dựng thịt BĐS đất nền chợ bến cát 2 lành mạnh , ông Hiệp đề xuất , về mặt quản lý vĩ mô , quốc gia cần sớm hạ lãi suất , đẩy mạnh các công trình nhà ở từng lớp , nhà giá thấp bằng nguồn ngân sách , nguồn vay biệt đãi , kể cả việc mua lại đề án , sản phẩm của DN.


Bên cạnh đó , cần thành lập chức vụ quản lý và phát triển quỹ nhà thuộc sở hữu Nhà nước; hình thành và xã hội hóa các công ty chuyên ngành quản lý BĐS; cân nhắc những loại hình đầu tư nào là làm ra , phi sản xuất để có chính sách phù hợp; sửa đổi các chính sách ưu đãi cho DN đầu tư xây dựng nhà xã hội , nhà công nhân để đáp ứng nhu cầu thực sự của thị trường.


Với các nhà đầu tư BĐS , ông Hiệp ý là ở thời khắc hiện tại , các nhà đầu tư nên chuyển hướng sang đầu tư đúng cầu thịt , tập trung vào phân khúc gia cư xã hội.


Với những dự án BĐS thương mại đang thiếu vốn , nhà đầu tư nên đăng ký xây dựng nhà xã hội bằng vốn biệt đãi ( không khuyến khích vay để phóng thích mặt bằng ).


Với những nhà đầu tư có đủ vốn thì đây là thời điểm không nên gấp gấp , cần tập kết mạnh vào khâu “chuẩn bị đầu tư”: tính toán cụt hứng , chi tiết chi phí để giảm giá thành , giá bán và đẩy mạnh các hình thức ưu đãi khách hàng. Trong tình huống xấu nhất , sẵn sàng chuyển dịch đề án cho nhà đầu tư khác.


Tuy thị trường BĐS Việt Nam bây giờ còn không ít có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn nhưng đã có định hướng phát triển cuộc giải trí lành mạnh trong tương lai. Với Chỉ thị 2196/CT-TTg ban hành ngày 6/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp tăng cường quản lý thịt BĐS , các nhà đầu tư dự án golden center city có khả năng tìm thấy cho mình một hướng đi phù hợp với thực tế thị trường và những điều kiện mà chính sách hỗ trợ.