Theo các chuyên gia , ngành BĐS hiện đang tiềm ẩn những mẫu thuẫn gay gắt , bắt phải giải quyết đó là: sự phát triển không đồng đều của ngành BĐS giữa các địa bàn. Trong lúc thị trường BĐS TP Hồ Chí Minh suy giảm thì ngành đất nền thuận an đang có những phân khúc khăng khăng vẫn biến động tăng; thị trường BĐS Đà Nẵng tăng thất thường. Tại Hà Nội , trong lúc một số địa bàn có giao dịch bùng phát cục bộ , ở những địa bàn khác hầu như không có giao dịch.

Bên cạnh đó , trong khi thị trường BĐS đang rất cần vốn , thì hệ thống giao thông ngân hàng thi hành các phương pháp thắt chặt tín dụng. Điều này biểu hiện trong quyết nghị 11/2011/NQ-CP và Thông tư 01/2011/TT-NHNN về tiếp hạn chế tín dụng cho ngành BĐS. Đó là một có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn vì thịt BĐS Việt Nam , sau 3 năm sắp xếp 2008-2010 đang rất cần một lượng vốn đủ lớn để có thể hồi phục và đi lên. Tuy vậy , một lần nữa , hệ thống giao thông nhà băng , vì mục đích chống lạm phát và ổn định kinh tế , tiếp chuyện thắt chặt tín dụng đối với thịt thà BĐS và thực hiện thắt chặt tổng cầu phê chuẩn thắt chặt nguồn tín dụng nhưng lại không có các kênh tiếp nhận tài chính thay thế.

Việc hạn chế giao dịch vàng miếng , giao dịch ngoại tệ trên ngành không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc , về dài hạn sẽ hạn chế được các tác động đến lạm phát , trong ngắn hạn sẽ kích thích đầu tư vào bất luận khu vực gì , kể cả đầu tư vào BĐS vì số tiền dôi dư ra từ việc không được kinh dinh vàng miếng và ngoại tệ. Tuy nhiên số tiền này là có hạn. Hệ quả là , nếu nguồn tiền này được đầu tư vào BĐS thì cũng chỉ được một đến hai nhịp là hết. Do vậy , nếu nó có tác động đến sự biến động trong thị trường BĐS thì cũng không mạnh và tính lan tỏa sẽ không rộng lớn.

Vẫn nhiều chính sách bất cập

Theo nhận định của PGS.TS. Lê Xuân Bá và TS. Năm triều vua Trung Hoa Kim Chung - Viện Học hỏi Quản lý Kinh tế Trung ương , hệ thống giao thông cơ chế chính sách liên quan đến ngành BĐS Vẫn những tồn tại nhược điểm. Đó là ngành BĐS Việt Nam còn đang ở cấp độ phát triển thấp , các thành tố của ngành hình thành chưa bĩ bàng. Từ năm 2004 , khi luật pháp ngăn lại trong một giới hạn nhất định các chủ đầu tư phân lô bán nền và thu tiền ứng trước của bên mua , ngành BĐS Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương nghiệp. Tuy nhiên , hệ thống giao thông ngân hàng thương nghiệp cốt yếu cung cấp nguồn vốn ngắn hạn trong lúc ngành BĐS cần nguồn vốn trung và dài hạn. Các văn bản pháp quy về các quỹ đầu tư BĐS , về trái phiếu BĐS , về hệ thống cầm đồ thứ cấp BĐS , về quỹ tiết kiệm BĐS hiện vẫn chưa có nên một hệ thống giao thông tài chính cần thiết cho ngành BĐS vẫn còn đang là một cầu mong đối với ngành này. Hệ quả là , thị trường BĐS luôn lâm vào trạng thái Thiếu thốn vốn ngay cả khi khi hệ thống giao thông nhà băng thương mại không giảm cung cấp tín dụng.

Tiếp theo đó , thị trường BĐS Việt Nam vẫn còn rất thiếu phân tích minh bạch , chủ yếu phụ thuộc vào bên bán. Thông cáo thị trường BĐS nói chung , ngành BĐS là gia cư nói riêng rất kém minh bạch. Hệ quả là người mua thường bị thua thiệt. Trên thực tiễn , đến nay , không có một cơ quan nào nắm được thông cáo xác thực hiện đang có bao lăm dự án BĐS ( dưới mọi hình thức và loại hình sản phẩm ) đang được khai triển , sản phẩm của các đề án đã và đang được bán cho ai , giác quan chuẩn xác là bao nhiêu. Mặc dầu Luật kinh doanh BĐS đã quy định mọi giao du mà có một bên là chủ thể kinh dinh BĐS phải giao thiệp qua sàn giao dịch BĐS nhưng dồi dào giao dịch vẫn chưa giao du qua sàn. Tình hình mua các sản phẩm BĐS tại các dự án cho đến nay vẫn chưa đi vào quy củ , nhà nước vẫn chưa quản lý được. Luật gia cư và Luật kinh dinh BĐS đã quy định các chủ đầu tư không được huy động vốn của bên mua khi chưa hoàn thành móng nhưng trong thực tiễn , các bên vẫn giao thiệp phê duyệt các giao kèo hùn tiền , giao kèo vay tiền... Đặt mua các sản phẩm từ khi đề án được hình thành.

hơn nữa , về chủ thể đầu tư dat nen thuan an, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện vẫn chỉ được giao đất có kì hạn để phát triển dự án. Trong khi đó , các chủ đầu tư trong nước có xác xuất được giao đất dài hạn. Đồng thời , việc cầm cố BĐS mới chỉ được thế chấp cho các tổ chức tín dụng đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Vì thế , hiện cót két trạng là người dân mua nhà của các doanh nghiệp trong nước thì được cấp giấy xác thực quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà còn nếu mua của chủ đầu tư nước ngoài thì phải nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất. Theo các chuyên gia , đó là những bất cập còn hiện hữu trong hệ thống giao thông chính sách phát triển ngành BĐS , đòi hỏi phải được nghiên cứu giải quyết trong quy trình nối hoàn thiện hệ thống giao thông pháp luật trong thời gian tới.

Mặt khác , theo các nhà đầu tư , ngành BĐS Việt Nam rất khó tiếp cận , phí tổn phi chính quy cao , gây trở ngại , hạn chế phát triển sản xuất. Các doanh nghiệp khi bắt đầu tìm hiểu , tiếp cận đất cát để hình thành và phát triển dự án BĐS thường gặp rất nhiều có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn. Điều này cho thấy hệ thống giao thông văn bản chưa theo kịp những diễn biến thực tiễn của cuộc sống.

hơn nữa , chính sách phát triển thị trường BĐS còn thiếu tính chế tài. Các quy hoạch , kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng như phát triển thành phố , quy hoạch sử dụng đất đã được các cấp chính quyền phê duyệt; tuy nhiên , việc thực hiện các quy hoạch này vừa thiếu tính nhất quán vừa không được thực hành bĩ bàng. Điều đặc biệt quan ngại là có nhiều quy hoạch được duyệt nhưng không được thực hiện. Một Sự tình khác cũng rất quan trọng là văn bản luật pháp liên hệ đến quy hoạch còn bị phân tán , do nhiều cơ quan ban hành. Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế tầng lớp , Bộ Tài nguyên và Môi trường trình quy hoạch sử dụng đất , Bộ Xây dựng trình quy hoạch phát triển đô thị. Các quy hoạch này thiếu sự phối hợp liên ngành , thiếu tính tổng thể nên rất khó đi vào cuộc sống. Hơn nữa , kỷ cương thực hiện quy hoạch không nghiêm nên dẫn đến tình trạng hoặc không thực hiện quy hoạch , hoặc là liên tục sửa đổi quy hoạch.

ngoài ra , nhiều vấn đề rất cơ bản liên tưởng đến ngành đất cát , BĐS vẫn chưa được ban hành. Chính sách bồi thường , giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập , làm cả quốc gia , doanh nghiệp và người dân đều không được phân chia một cách thỏa đáng , phù hợp. Tất cả các bên liên quan đến vấn đề bồi thường giải tỏa để phát triển dự án BĐS hiện đang còn nhiều uẩn khúc. Hay như vấn đề thời hạn giao đất và hạn điền giao đất đã tỏ ra rất bất cập nhưng vẫn chưa được giải quyết. Đến năm 2013 , kì hạn giao đất nông nghiệp từ năm 1993 đã hết. Vấn đề đặt ra là tiếp tục giao như ngày nay hay có chính sách nào khác rất cần được trả lời. Tuy nhiên , hiện vẫn chưa có kết luận…

Đáng chú ý , Công hiệu , hiệu quả quản lý quốc gia đối với thị trường BĐS vẫn còn nhiều giữ lại. Việc các dự án chậm triển khai , chậm tiễn độ đã được quy định là phải thu hồi đất đai. Tuy nhiên , cho đến nay , liệt kê chưa trọn vẹn cho thấy trên cả nước có khoảng 2500 dự BĐS đang khai triển. Tuy nhiên , số dự án khu do thi golden center city chậm tiến độ hay chậm triển khai là khá nhiều nhưng số dự án thu hồi còn rất nhỏ.